Tuesday, May 24, 2011

CÂY LƯỢC VÀNG


Cây lược vàng (ria vàng) có tên khoa học là Cailisia Fragrans ( Callificia Frangranx Commelinace) (Золоtoň  yc) và ở Việt Nam, vùng Thanh Hóa còn gọi là Lan vòi, Lan rũ, Địa lan vòi…Tên khoa học của nó do nhà khoa học Mỹ R.E.Woodson đặt năm 1942 theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là cây huệ đẹp. Nó có nguồn gốc từ Mêxico, Viện Nghiên cứu Dược liệu- Bộ Y tế đã xác định nó thuộc họ thài lài.

Theo phân tích cũa tiến sĩ Neumyvakin, lược vàng có tác dụng chữa bệnh diệu kỳ là do trong nhựa cây có sự kết hợp hiếm thấy các hoạt chất sinh học với mật độ rất đậm đặc thuộc các nhóm phitosteroid và phlavonoid. Lược vàng chứa nhiều vitamin và các chất vi tố rất quan trọng đối với cơ thể người như đồng, crôm, niken, sắt. Nó có thể gây ra một số phản ứng phụ như gây mẩn ngứa, dị ứng da.
Tại Nga, lược vàng dùng để chữa bệnh rối loạn tiêu hóa, viêm dạ dày, viêm tụy, u xơ tử cung, hen suyễn, các bệnh tuyến giáp, đau cột sống và khớp, viêm dây thần kinh gốc, tê thấp, chống viêm lóet các vết thương, vết cắn, bỏng, làm đẹp tóc, chống nhăn da mặt,da tay và đặc biệt là trị ung thư.
Theo tạp chí Sức khỏe-Đời sống của Nga, cây lược vàng có tính mát, hạ huyết áp, không độc. Khi dùng có thể dùng lá ăn sống, toàn bộ thân rễ thì ngâm rượu uống, làm thuốc bóp. Nó có thể chữa nhiều bệnh như viêm họng, dạ dày, tá tràng, đau lưng, khớp, bướu cổ, di chứng não, tim mạch, huyết áp và xơ vữa động mạch, u nang buồng trứng.
Bác sĩ Nguyễn Thế Dân- giám đốc trung tâm Cứu trợ trẻ em tàn tật Thanh Hóa cho biết việc chế biến và sử dụng cây lược vàng có thể tiến hành theo các cách đơn giản sau:rửa sạch lược vàng tươi, dùng nhai, nuốt hoặc hấp cơm ăn từ 3 đến 9 lá mỗi ngày. Dùng thân cây tươi thái mỏng, ngâm rượu, sau chừng 1 tháng rượu sẽ đổi sang màu đỏ như rượu vang là dùng được. Mỗi ngày nên uống 3 chén nhỏ trước mỗi bữa ăn chừng 30 phút. Lá và thân cũng có thể phơi khô, pha uống thay chè. Nhìn chung, việc sử dụng cây lược vàng được chế biến theo hai dạng sản phẩm: dạng dùng uống bên trong là si-rô, rượu nhằm điều trị các bệnh viêm nội tạng, tiểu đường, ung bướu và các di chứng của bệnh tim mạch… và dạng xoa bóp bên ngoài bằng rượu chữa các bệnh về răng miệng, viêm họng, xoa bóp chữa các vết thương bị tụ máu, chữa đau lưng, nhức gân xương, thoái hóa khớp…Theo kinh nghiệm, cây lược vàng có tính mát, không độc, có khả năng hạ huyết áp.Do đó, khi sử dụng theo dạng uống như ngâm rượu, làm si-rô thì không nên uống với liều lượng quá nhiều, đề phòng tụt huyết áp.

MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI CÂY LƯỢC VÀNG
Cây lược vàng dễ trồng, có thể bẻ các chồi cây hay cắt khúc thân cây dài 6-7 cm sau đó giâm xuống đất hoặc trong nước chờ cho nó đâm rễ thì đem trồng được.
-Khi trồng nên trồng riêng một nơi, không trồng chung các loại cây khác ( nhằm tránh  các tạp chất khác nhiễm vào cây)
- Không nên bón phân hóa học vào cây ( chỉ nên bón phân chuồng bò hoặc các loại phân bón khác không chứa chất hóa học)
Không nên uống rượu lược vàng và ăn sống lá lược vàng quá liều lượng. Vì khi dùng quá liều sẽ bị tụt huyết áp dẫn đến tử vong.



Nguồn http://www.callisia.org/


No comments:

Post a Comment